NHỮNG KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC TRONG PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THỨC LIÊN KẾT, HỢP TÁC TRONG SẢN XUẤT, CHẾ BIẾN, TIÊU THỤ THEO CHUỖI GIÁ TRỊ NÔNG SẢN Ở NGHỆ AN

Thứ hai - 18/08/2025 10:17 0
Nhận thức rõ sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị liên kết là hướng đi bền vững giúp nâng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập cho nông dân và doanh nghiệp, là một trong những nội dung quan trọng của nhiệm vụ cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, trong những năm qua, cấp ủy, chính quyền Nghệ An đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo phát triển các mô hình hợp tác, liên kết theo chuỗi từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ nông sản.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã có Chỉ thị số 12-CT/TU ngày 01/12/2021 về “ Đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, nông thôn gắn với mục tiêu xây dựng nông thôn mới tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021-2025”; UBND đã ban hành Đề án về “ Tiếp tục đổi mới và phát triển hợp tác xã tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021-2025” ban hành theo Quyết định số 1958/QĐ-UBND ngày 18/6/2021; đồng thời thông qua các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế, nông nghiệp, nông thôn, tỉnh đã ban hành các cơ chế, chính sách để hỗ trợ, khuyến khích phát triển các hình thức liên kết, hợp tác trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông sản. Chính vì thế các hình thức liên kết, hợp tác trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn tỉnh ngày càng phát triển khá đa dạng trên các lĩnh vực, góp phần tích cực vào việc nâng cao tốc độ tăng tưởng giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản trên địa bàn tỉnh.
 Một số HTX được trao thưởng tại Hội nghị biểu dương điển hình tiên tiến khu vực kinh tế tập thể, HTX toàn tỉnh giai đoạn 2020-2025
 
Tính đến ngày 30/6/2025, trên địa bàn toàn tỉnh đã có 934 hợp tác xã (HTX) được thành lập, trong đó có 897 HTX đang hoạt động và 3.125 tổ hợp tác (THT) đã được thành lập, trong đó có 365 THT đang hoạt động. Trong số 897 HTX đang hoạt động thì số HTX hoạt động trên lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp là 709 HTX; hoạt động trên lĩnh vực TTCN là 38 HTX; hoạt động trên lĩnh vực TMDV-DL là 47 HTX; HTX hoạt động trên lĩnh vực VT-MT là 44 HTX và hoạt động trên lĩnh vực tín dụng có 59 Quỹ TDND. Việc liên kết, hợp tác trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản chủ yếu thực hiện thông qua các hình thức liên kết, hợp tác trong nội bộ giữa HTX với các thành viên; giữa các HTX nông nghiệp với nhau; giữa HTX nông nghiệp với các HTX dịch vụ thương mại và giữa các HTX nông nghiệp với các công ty, doanh nghiệp…
Thông qua các hình thức hợp tác, liên kết đã tạo thêm điều kiện cho các HTX, THT, thành viên, hộ gia đình có thêm nguồn lực để đầu tư hạ tầng, phương tiện máy móc phục vụ sản xuất, chế biến, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và kết nối, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đã có rất nhiều mô hình HTX trên địa bàn tỉnh thực hiện việc hợp tác, liên kết có hiệu quả. Trên mảng sản xuất, chế biến lúa, gạo, nhiều HTX hợp tác, liên kết có hiệu quả (từ việc cung cấp dịch vụ, đưa cơ giới hóa vào sản xuất, đến việc bảo quản, kết nối tiêu thụ, xây dựng thương hiệu về sản phẩm…) như: HTX Nông nghiệp và dịch vụ tổng hợp Thọ Thành, HTX Nông nghiệp và dịch vụ Liên Thành, HTX Dịch vụ nông nghiệp và xây dựng Minh Thành, HTX Nông nghiệp và dịch vụ Diễn Đồng…. Trên mảng sản xuất, chế biến Dược Liệu, có các HTX: HTX Dược liệu Phù Mát, HTX cây con Chi Khê, HTX Dược liệu Phù Quỳ, HTX Nông dược Tĩnh Sáng Đường, HTX Dược liệu Nghĩa Đàn, HTX Dược liệu Quỳ Hợp, … Trên mảng sản xuất, chế biến Chè, có các HTX:  HTX Chè Minh Sáng, HTX Chè Quý Oanh, HTX Chè Thành Mai, HTX Trà Hoa vàng Mạc Nga, HTX Nông nghiệp Sen Quê Bác….
 
 
Các HTX đẩy mạnh công tác liên kết, hợp tác, kết nối tiêu thụ sản phẩm
 
Phải nói rằng, trong những năm gần đây, các mô hình liên kết, hợp tác trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông sản, trong đó có lĩnh vực xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm lúa, chè, dược liệu đã không ngừng phát triển cùng với việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới và các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp an toàn, đã góp phần giúp các sản phẩm nông nghiệp được nâng cao cả về số lượng và chất lượng; đa dạng về chủng loại, do vậy đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường với số lượng lớn và thị hiếu tiêu dùng khác nhau. 
Tuy nhiên, một thực tế trên địa bàn tỉnh hiện nay là các hình thức liên kết, hợp tác trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông sản vẫn còn nhiều hạn chế: Hoạt động liên kết, hợp tác giữa các chủ thể nhìn chung còn ít, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển nông nghiệp của tỉnh. Số lượng HTX trên địa bàn tỉnh tuy khá lớn so với mặt bằng chung của cả nước nhưng quy mô còn nhỏ; năng lực sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nhìn chung còn thấp; hoạt động sản xuất, chế biến và tiêu thụ của người dân và doanh nghiệp, HTX còn thiếu thông tin về thị trường, trong khi công tác định hướng sản xuất, quy hoạch vùng nguyên liệu, xây dựng hệ thống thông tin, thống kê, dự báo của các ngành có liên quan còn nhiều hạn chế. Tính hợp tác, liên kết trong nội bộ HTX, THT và giữa các HTX, THT với nhau nhiều nơi chưa cao. Vẫn còn một số mô hình liên kết thiếu bền vững. Nhiều nơi HTX, thành viên, hộ gia đình vẫn chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của sự liên kết, hợp tác; chưa yên tâm và sẵn sàng tham gia liên kết, hợp tác, nhất là liên kết, hợp tác giữa các HTX, THT tham gia sản xuất trên cùng một lĩnh vực hoặc sản xuất, chế biến cùng một dòng sản phẩm (trong đó có lúa gạo, chè, dược liệu); chưa mạnh dạn đầu tư, liên kết, hợp tác để cùng thực hiện nhiệm vụ sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm… Vì thế mặc dù sản phẩm nông sản Nghệ An khá đa dạng về chủng loại và phát triển ở nhiều địa bàn nhưng chưa tạo được sức mạnh canh tranh trên thị trường cả về quy mô, số lượng, chất lượng, thương hiệu sản phẩm.  
Cùng với đó, việc phát triển các hình thức liên kết, hợp tác trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị nông sản trên địa bàn tỉnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn thách thức:
Thứ nhất, hệ thống kiểm soát chất lượng sản phẩm để truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông sản chưa được ứng dụng rộng rãi; các sản phẩm thực thẩm của các mô hình chuỗi sản xuất và cung cấp thực phẩm nông, lâm, thủy sản an toàn tiêu thụ qua các hệ thống phân phối và kinh doanh còn hạn chế do chưa hình thành được nhiều vùng sản xuất tập trung quy mô lớn và đa dạng sản phẩm; thị trường tiêu thụ còn thiếu ổn định nên chưa khuyến khích được nhiều doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất.
Thứ hai, quá trình sản xuất, sơ chế sản phẩm nông, lâm, thủy sản chủ yếu theo phương thức truyền thống, tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ còn nhiều, canh tác theo thói quen, do đó việc tuân thủ theo quy trình kỹ thuật đồng nhất còn gặp khó khăn. Điều này rất khó để tạo thành chuỗi liên kết sản xuất – tiêu dùng đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn nông sản, thực phẩm. Trong khi đó, nhu cầu của thị trường trong nước và thế giới ngày càng đòi hỏi sản phẩm nông lâm thủy sản phải có chất lượng cao hơn, không những về vệ sinh an toàn thực phẩm mà còn đảm bảo về bảo vệ môi trường.
Thứ ba, tính liên kết giữa hộ dân, HTX và doanh nghiệp chưa chặt chẽ. Nhận thức một bộ phận nông dân còn hạn chế, chưa thật sự tuân thủ những ràng buộc trách nhiệm với HTX, doanh nghiệp; vẫn có tâm lý bán hàng ra ngoài, phá vỡ cam kết khi giá thị trường lên cao. Một bộ phận vẫn còn thấy “xa lạ” với khái niệm chuỗi liên kết, vì vậy việc áp dụng đúng quy trình sản xuất theo chuỗi gặp nhiều khó khăn và phức tạp.  
Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp hợp tác với nhau có hiện tượng lấn sân. Một số doanh nghiệp, sau khi thực hiện vai trò của mình trong chuỗi hợp tác, lại muốn mở rộng ra cả vai trò của người khác, làm phá vỡ tính hệ thống của chuỗi liên kết. Vì vậy để liên kết được, các doanh nghiệp phải có ý thức và có cùng tầm nhìn.
Thứ tư, vấn đề thiếu các công nghệ ứng dụng như bảo quản sau thu hoạch cũng là một trở ngại. Đối với mặt hàng nông sản, nhất là rau quả, lúa, dược liệu, chè… việc bảo quản là rất quan trọng. Thực tế hiện nay, các hộ nông dân, HTX, THT thu hoạch, sơ chế, bảo quản không đúng cách hoặc chưa có điều kiện đầu tư các phương tiện bảo quản hiện đại, khiến giá trị sản phẩm bị giảm xuống.
Một thực trạng hiện nay là, hầu hết các loại nông sản được sản xuất trên địa bàn tỉnh có sản lượng tương đối lớn nhưng lại mang tính thời vụ cao. Vì vậy, khối lượng và chủng loại các sản phẩm nông sản chưa đủ và không đáp ứng đủ yêu cầu tiêu thụ cũng là một khó khăn cho việc gắn kết giữa các cơ sở sản xuất với kinh doanh để tạo thành chuỗi liên kết tiêu thụ.
Từ những kết quả đạt được trong thời gian qua, khắc phục các khó khăn, hạn chế để thực hiện có hiệu quả việc phát triển các hình thức liên kết, hợp tác trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị nông sản trên địa bàn tỉnh, thiết nghĩ thời gian tới cần tập trung quan tâm một số nội dung sau:
Một là, Tiếp tục quán triệt đầy đủ, sâu sắc các quan điểm, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác đến cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là Nghị quyết số 20 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế tập thể trong giai đoạn mới” và Luật Hợp tác xã 2023. Đẩy mạnh và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho cán bộ, nhân dân về vai trò và tâm quan trọng của kinh tế hợp tác nói chung và việc phát triển các hình thức liên kết, hợp tác trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị nông sản nói riêng. Qua đó để tiếp tục tuyên truyền, tư vấn, hỗ trợ việc thành lập các mô hình HTX, THT, liên hiệp HTX, liên kết với nhau và liên kết với các doanh nghiệp để nâng cao năng lực, hiệu quả sản xuất kinh doanh, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông sản theo chuỗi giá trị,  gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế nông thôn theo chiều sâu, có hiệu quả và bền vững.
Hai là, tiếp tục rà soát, bổ sung các cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ phát triển các hình thức liên kết, hợp tác trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị nông sản; sửa đổi, bổ sung những nội dung còn thiếu và những nội dung chưa phù hợp, nhằm hoàn thiện thể chế, chính sách để thu hút sự tham gia mạnh mẽ hơn của các doanh nghiệp và HTX vào phát triển liên kết chuỗi giá trị sản phẩm nông sản. Quan tâm nghiên cứu thêm các chính sách hỗ trợ, nhất là các chính sách hỗ trợ sau đầu tư, tập trung vào khâu sơ chế, chế biến, nhãn mác hàng hóa, truy xuất nguồn gốc, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch và tiêu thụ sản phẩm... nhằm khuyến khích nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân, HTX tập trung đầu tư hình thành vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, còn doanh nghiệp thì có vùng nguyên liệu ổn định.
Ba là, Đẩy mạnh việc ứng dụng đồng bộ các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ sinh học, cơ giới hóa, tự động hóa, công nghệ na-no, kinh tế tuần hoàn... trong quá trình sản xuất, sơ chế, đóng gói, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông sản nhằm gia tăng giá trị sản xuất. Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào trang trại quy mô lớn, sản xuất theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao nhằm tạo ra các sản phẩm an toàn, chất lượng, có giá trị cao và bền vững. Đồng thời tiếp tục đẩy mạnh đăng ký và quản lý mã số vùng sản xuất và ứng dụng đồng bộ các công nghệ, kỹ thuật mới để vượt qua rào cản kỹ thuật của các thị trường khó tính nhưng đầy tiềm năng trong nước và xuất khẩu.
Bốn là, đẩy mạnh thiết lập hệ sinh thái quản trị bền vững chuỗi giá trị. Theo đó, cấp ủy, chính quyền cấp xã, phường cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhà nước về quy hoạch, vận động và tạo điều kiện cho người dân tham gia sản xuất tập trung theo quy hoạch. Phát huy vai trò của HTX nông nghiệp (HTX chuyên ngành) để làm đầu mối tiếp nhận ứng dụng kỹ thuật mới và chuyển giao cho các thành viên hợp tác xã. Đơn vị chuyển giao ứng dụng khoa học - kỹ thuật cần được xác định là một mắt xích không thể tách rời trong chuỗi liên kết, chịu trách nhiệm cùng HTX hướng dẫn thành viên trong sản xuất, thu hoạch sơ chế chế biến và bảo quản để có sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của đơn vị phân phối tiêu thụ. Đơn vị phân phối, tiêu thụ sản phẩm cần làm tốt công tác dự báo thị trường tiêu thụ, yêu cầu rõ về số lượng, chất lượng, mẫu mã bao bì sản phẩm để làm cơ sở cho đơn vị chuyển giao; HTX và người sản xuất áp dụng với công nghệ phù hợp và giá thành hợp lý nhất để tăng cường tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Năm là, Quan tâm hơn nữa công tác bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản trị điều hành của các HTX, THT để nâng cao tính chủ động trong xây dựng và thực hiện các chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh; nâng cao nhận thức, năng lực liên kết, hợp tác trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị tạo sự đồng bộ, hiệu quả giữa hộ nông dân, thành viên, HTX, THT và doanh nghiệp trong việc liên kết, hợp tác trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị, góp phần nâng cao nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp và tốc độ tăng tưởng giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản trên địa bàn tỉnh./.

Tác giả bài viết: BBT.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập28
  • Hôm nay628
  • Tháng hiện tại173,169
  • Tổng lượt truy cập19,433,452
Liên kết website
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây